Chương này đánh giá trách nhiệm của các hội đồng trong các DNNN dựa trên Chương VII của Bộ hướng dẫn về DNNN của OECD. Chương còn xem xét khuôn khổ bổ nhiệm và đề cử hội đồng trong DNNN và cũng xem xét mức độ mà các hội đồng trong DNNN được trao quyền để thực hiện các đánh giá khách quan và độc lập vì lợi ích tốt nhất của công ty.
Đánh giá của OECD về Quản trị Công ty trong Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
13. Trách nhiệm của các hội đồng trong các doanh nghiệp nhà nước
Abstract
13.1. Nhiệm vụ và trách nhiệm của hội đồng đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
A. Các hội đồng trong DNNN cần được chỉ định nhiệm vụ rõ ràng và trách nhiệm cuối cùng đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của các hội đồng trong DNNN cần được xác định rõ ràng trong pháp luật, tốt nhất là theo quy định của công ty. Hội đồng nên chịu trách nhiệm hoàn toàn với chủ sở hữu, hành động vì lợi ích tốt nhất của doanh nghiệp và đối xử công bằng với tất cả cổ đông
Nhiệm vụ của các hội đồng trong DNNN khác nhau theo hình thức DNNN - dù là doanh nghiệp nhà nước sở hữu toàn bộ, trường hợp này là Hội đồng Thành viên (HĐTV), hay sở hữu một phần, trường hợp này là Hội đồng Quản trị (HĐQT). Nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của cả HĐTV và HĐQT được quy định trong Luật Doanh nghiệp.
HĐTV (hoặc Chủ tịch, trong trường hợp các công ty TNHH một thành viên lựa chọn không có HĐTV) “có quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp theo luật và quyết định của cơ quan đại diện chủ sở hữu”. Bộ luật cho phép HĐTV/Chủ tịch “ban hành quyết định sau khi có sự đồng ý của cơ quan đại diện chủ sở hữu về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng [và] phạt, cùng những quyết định khác, đối với Tổng giám đốc hoặc Giám đốc (CEO)”. Họ phải yêu cầu nhà nước (Thủ tướng Chính phủ hoặc cơ quan sở hữu) ra quyết định về những nội dung này cho Chủ tịch và các thành viên khác trong HĐTV. Họ có thể ra quyết định mà không cần nhà nước phê duyệt về thù lao của tổng giám đốc và các phó giám đốc, cũng như bổ nhiệm và miễn nhiệm các phó giám đốc. Điều này cũng khiến HĐTV chịu trách nhiệm pháp lý với bất kỳ vi phạm nào gây ra tổn thất hoặc thiệt hại đối với vốn và tài sản của doanh nghiệp (Điều 44). Các trách nhiệm khác của HĐTV trong công ty TNHH một thành viên được nêu trong Bảng 13.1 dưới đây.
Về mặt giấy tờ, luật chỉ định HĐTV, và HĐQT đối với trường hợp CTCP, nhiệm vụ rõ ràng và quyền quản lý, kiểm soát doanh nghiệp. Trên thực tế, việc cần yêu cầu nhà nước phê duyệt các quyết định quan trọng sẽ khiến HĐTV mất đi thẩm quyền dự định có và làm quy trình ra quyết định kém hiệu quả.
HĐTV bao gồm các đại diện cho phần vốn nhà nước. Dù về chính thức, họ không được coi là công chức hay viên chức, điều này cho thấy có mức độ tách biệt nhất định giữa chủ sở hữu và hoạt động kinh doanh của công ty, thực tế, hội đồng bao gồm toàn bộ đại diện nhà nước hoặc người từng là nhân viên của tổ chức. Mỗi DNNN áp dụng các quy trình, thủ tục khác nhau cho dự án phê duyệt hoặc kế hoạch đầu tư, trong đó tổng giám đốc và HĐTV quyết định xem có thể quản lý quy trình trong nội bộ công ty hay không. Trường hợp thường xảy ra là người đại diện phần vốn nhà nước trong HĐTV quyết định nâng mức phê duyệt lên mức của CMSC, sau đó cơ quan này thường chọn chia sẻ quyết định với các bộ khác - cụ thể là Bộ KH-ĐT và Bộ TC. Thực sự, ở nhiều quốc gia, quyết định lớn hoặc một DNNN có thể được giám sát bởi chủ sở hữu nhà nước, nhưng tính linh hoạt và đột xuất của việc cho phép HĐTV ra quyết định đã đặt ra câu hỏi về tính nhất quán của các thông lệ quản trị và cơ hội để đại diện nhà nước tạo tác động tới công tác vận hành doanh nghiệp trong vai trò là đại diện nhà nước so với những gì vì lợi ích tốt nhất của công ty. Trong khi cách làm thông thường không chỉ làm tăng thêm lớp thủ tục quan liêu đối với quy trình ra quyết định trong công ty, mà còn là dấu hiệu cho thấy chưa có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng giữa tổng giám đốc và ban lãnh đạo với HĐTV, và giữa công ty và chủ sở hữu nhà nước. Điều này cũng cho thấy mức độ tự chủ cao trong mỗi DNNN và hội đồng với việc áp dụng các trách nhiệm, chưa kể để các biện pháp kiểm soát quan trọng.
Đối với DN cổ phần nhà nước do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần, trách nhiệm được quy định rõ ràng hơn. Trên thực thế, những DNNN này báo cáo cho cuộc họp cổ đông thường niên. Tuy nhiên, nhóm công tác vẫn quan ngại về độ tự chủ của HĐQT và công tác quản trị vận hành của DNNN do ranh giới mong manh và các kênh báo cáo giữa bên đại diện phần vốn nhà nước trong hội đồng và chủ sở hữu nhà nước. Bảng dưới đây trình bày tổng quan về trách nhiệm của cả HĐTV và HĐQT.
Không có khái niệm chính thức về “giám đốc ngầm” ở Việt Nam. Luật Doanh nghiệp (Khoản 4, Điều 56) quy định chi tiết quy trình bổ nhiệm tạm thời khi Chủ tịch hội đồng không đủ năng lực hay không thể thực hiện chức năng của mình. Vai trò này thường được đảm nhận bởi Tổng giám đốc. Một cá nhân trong HĐTV được giao nhiệm vụ triệu tập cuộc họp để bầu một trong những thành viên hiện tại trong hội đồng tạm thời làm Chủ tịch, sau đó các thành viên khác sẽ nhất trí. Vị trí này tồn tại “cho đến khi có quyết định mới của [HĐTV]”. Quy định đó cũng nên được phản ánh trong điều lệ công ty. Như những gì có thể nhận thấy, không có thời gian hay thời hạn xác định trước đối với vị trí quyền Chủ tịch. Luật không quy định các thủ tục đối với các thành viên hội đồng không phải là Chủ tịch.
Bảng 13.1. Nghĩa vụ của Hội đồng thành viên (với công ty TNHH) và Hội đồng quản trị (với CTCP)
Hội đồng thành viên |
Hội đồng quản trị |
|
---|---|---|
DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ (Công ty TNHH một thành viên) |
DNNN do nhà nước sở hữu đa số (Công ty TNHH hai thành viên trở lên) |
DNNN do nhà nước sở hữu đa số (CTCP) |
a) Quyết định các vấn đề nêu tại Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; b) Quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể chi nhánh, văn phòng đại diện và các đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty; c) Quyết định kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm, chủ trương phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ của công ty; d) Tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ và quyết định thành lập đơn vị kiểm toán nội bộ của công ty; đ) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Điều lệ công ty, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. |
a) Quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; b) Quyết định tăng hoặc giảm vốn điều lệ, quyết định thời điểm và phương thức huy động thêm vốn; quyết định phát hành trái phiếu; c) Quyết định dự án đầu tư phát triển của công ty; giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và chuyển giao công nghệ; d) Thông qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản và hợp đồng khác do điều lệ công ty quy định có giá trị từ 50% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty (hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty); đ) Bầu, miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, ký và chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc/Tổng giám đốc, kế toán trưởng, kiểm soát viên và người quản lý khác quy định tại điều lệ công ty; e) Quyết định mức lương, thù lao, thưởng và lợi ích khác đối với Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc/Tổng giám đốc, kế toán trưởng, kiểm soát viên và người quản lý khác quy định tại điều lệ công ty; g) Thông qua báo cáo tài chính hằng năm, phương án sử dụng và phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty; h) Quyết định cơ cấu tổ chức quản lý công ty; i) Quyết định thành lập công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện; k) Sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; l) Quyết định tổ chức lại công ty; m) Quyết định giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty; n) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và điều lệ công ty. |
a) Quyết định chiến lược phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; b) Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; c) Quyết định bán cổ phần chưa bán trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác; d) Quyết định giá bán cổ phần và trái phiếu của công ty; đ) Quyết định mua lại cổ phần theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 133 của Luật Doanh nghiệp; e) Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo quy định của pháp luật; g) Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; h) Thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng, giao dịch khác có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác; hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền quyết định của ĐHĐCĐ theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 138, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 167 của Luật Doanh nghiệp. i) Bầu, miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị; bổ nhiệm, miễn nhiệm, ký kết hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc/Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do điều lệ công ty quy định; quyết định tiền lương, thù lao, thưởng và lợi ích khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo ủy quyền tham gia Hội đồng thành viên hoặc ĐHĐCĐ ở công ty khác; quyết định mức thù lao và quyền lợi khác của những người đó; k) Giám sát, chỉ đạo Giám đốc/Tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty; l) Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty; quyết định thành lập công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện; việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác; m) Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ; triệu tập họp ĐHĐCĐ hoặc lấy ý kiến để ĐHĐCĐ thông qua nghị quyết; n) Trình báo cáo tài chính hằng năm lên ĐHĐCĐ; o) Kiến nghị mức cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh; p) Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể công ty; yêu cầu phá sản công ty; q) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và điều lệ công ty. |
Nguồn: Luật Doanh nghiệp.
Các đánh giá cho HĐTV thường là từ trên xuống - nghĩa là thực hiện bởi bộ có thẩm quyền chịu trách nhiệm đề cử hội đồng. Hay theo cách nói của bên Việt Nam, “người đề cử thì phải đánh giá”. Tuy nhiên, cơ quan thực hiện đánh giá một phần dựa trên bản tự đánh giá của hội đồng, căn cứ theo Nghị định 159. Nhóm công tác hiểu rằng việc đánh giá của hội đồng chỉ mang tính hình thức, hay nói cách khác là không thu được kết quả đánh giá có ý nghĩa. Nhóm công tác nghi ngại rằng điều này phần nào có thể xảy ra, bởi thành viên trong HĐTV biết thông tin này sẽ được cung cấp để bộ có thẩm quyền đưa ra đánh giá, và được sử dụng để xác định mức thù lao cho năm tiếp theo.
13.2. Xây dựng chiến lược và giám sát công tác quản lý
B. Các hội đồng trong DNNN cần thực hiện hiệu quả chức năng của mình trong xây dựng chiến lược và giám sát công tác quản lý, dựa trên nhiệm vụ và mục tiêu tổng quan do chính phủ đặt ra. Hội đồng nên có quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm tổng giám đốc. Hội đồng nên đặt mức thù lao cho ban điều hành phù hợp với lợi ích lâu dài của doanh nghiệp
Khó khăn chung đối với việc quản trị DNNN nhiều khả năng nằm ở việc pháp luật hiện được xây dựng theo hướng trao cho nhà nước, ít nhất là trong trường hợp DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ, quyền ra quyết định cuối cùng về thành phần và đại diện trong hội đồng. Nhiều đại diện của nhà nước cùng nhau quản lý nhóm ứng cử viên, điều chỉnh hợp lý tiêu chí yêu cầu cho từng vị trí, đánh giá mức độ đáp ứng tiêu chí, đề cử thành viên hội đồng có sự tham vấn với ban lãnh đạo công ty, và cuối cùng là bổ nhiệm (đôi khi do Thủ tướng Chính phủ thực hiện). Hơn nữa, trong khi luật năm 2015 cấm công chức tham gia vào các hội đồng - cả HĐTV và HĐQT - nhà nước vẫn bổ nhiệm “nhóm đại diện cho phần vốn nhà nước” vào hội đồng.
Chính quyền Việt Nam đề xuất chủ sở hữu nhà nước thực hiện quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật, bao gồm Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. Các điều lệ công ty riêng lẻ cũng nhằm hướng tới việc trao cho DNNN quyền tự chủ và “tự chịu trách nhiệm”, điều này cho thấy rằng chủ sở hữu nhà nước có trách nhiệm tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong điều lệ công ty. Nhiều bên liên quan nhấn mạnh lại rằng sự can thiệp vào hoạt động kinh doanh của DNNN sẽ bị coi là bất hợp pháp.
Có vẻ có một quy trình để thúc đẩy việc ra quyết định từ tổng giám đốc tới HĐTV hoặc HĐQT, cho đến CMSC (và các bộ khác) tùy thuộc vào tính chất của quyết định. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, ngưỡng hoặc chỉ tiêu về thời điểm cần đưa ra quyết định ở cấp nào chưa được làm rõ trong luật, mặc dù nội dung này có thể được định rõ ràng hơn trong điều lệ công ty. Quy định này có thể khác nhau tùy vào mỗi công ty. Có vẻ như người đại diện phần vốn nhà nước, hiển nhiên là trong HĐTV và có khả năng là HĐQT, có tầm ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của công ty về mặt điều hành, giữ mối liên hệ chặt chẽ với chủ thể xuất thân của mình (bất kể là CMSC hay SCIC).
Về mặt lý thuyết, HĐTV trong công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ sẽ chịu sự giám sát của Ban kiểm soát (BKS). Trên thực tế, mặc dù BKS được trao quyền hạn ngang với HĐTV, BKS không thể có quyền hạn cao hơn HĐTV. Một cách “kiểm soát và cân bằng” hiệu quả hơn đối với cả HĐTV và ban quản lý điều hành là qua các “Tổ chức Đảng” hay đại diện Đảng Cộng sản trong từng DNNN. Thông thường, Tổ chức Đảng có đại diện trong các vị trí lãnh đạo - tổng giám đốc và/hoặc Chủ tịch hội đồng - nhưng không phải là duy nhất. Họ hành động độc lập trong công ty và có thể khá hiệu quả trong việc khiến ban lãnh đạo và các hội đồng chịu trách nhiệm giải trình, đặc biệt là xoay quanh vấn đề tham nhũng hoặc các sai phạm liên quan, vốn là trọng tâm chính của Đảng Cộng sản. Trong khi hoạt động của Đảng Cộng sản, KTNN và thanh tra được cho là hiệu quả trong việc quy trách nhiệm giải trình cho DNNN, nhóm công tác vẫn còn hoài nghi rằng họ chịu trách nhiệm giải trình đối với các quyết định chỉ có lợi cho công ty, vì thực tế các quyết định của HĐTV trong doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ được kỳ vọng có lợi cho nhà nước.
Trong trường hợp DNNN dưới hình thức CTCP, HĐQT có quyền tuyển dụng và ký hợp đồng lao động với tổng giám đốc, tuân theo sự chấp thuận của chủ sở hữu nhà nước. Theo pháp luật, tổng giám đốc của DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ sẽ được HĐTV bổ nhiệm, tuân theo sự chấp thuận hoặc yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu (bộ có thẩm quyền). Trên thực tế có thể ngược lại - tức là bộ có thẩm quyền ban đầu sẽ đưa ra đề xuất và đề cử dựa trên nhóm ứng viên, và tham khảo ý kiến với HĐTV. Đối với tập đoàn công ty, các chức danh Chủ tịch và CEO/Tổng Giám đốc được coi là “vị trí cấp cao”, do đó sẽ do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, cho dù tập đoàn công ty ở cấp trung ương hay cấp tỉnh. Ở cả công ty TNHH và CTCP, có vẻ như HĐTV và HĐQT đều tham gia vào quy trình đánh giá thường niên cho tổng giám đốc - kết quả sau đó được thông báo cho cấp ủy của công ty và cơ quan có thẩm quyền theo yêu cầu. Đánh giá này sẽ được HĐTV cân nhắc khi xem xét việc bổ nhiệm lại, nâng lương và thưởng cho ban quản lý điều hành.
Vấn đề nhân sự của DNNN do các bộ có thẩm quyền giám sát. Hướng dẫn về quản lý nhân sự do Bộ NV quy định, đóng vai trò như cố vấn cho các bộ có thẩm quyền về luật pháp và các vấn đề nhân sự cụ thể. Theo quan sát của nhóm công tác, Bộ NV và bộ có thẩm quyền cùng nhau đảm nhiệm vai trò giám sát công tác quản lý DNNN, đặc biệt là DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ.
Tuy đóng vai trò giám sát công tác quản lý, nhà nước cũng có ảnh hưởng lớn tương đương, không hề ít hơn do nhà nước và Đảng đều đại diện đa số trong các hội đồng (100% nhà nước sở hữu). OECD nhận thấy rằng các bộ có thể và thực tế tham vấn trực tiếp với các tổng giám đốc và không thông qua HĐTV, như về vấn đề góp ý cho soạn thảo luật, điều này làm dấy lên lo ngại về việc ban lãnh đạo DNNN hành động vì lợi ích tốt nhất của doanh nghiệp cũng như nhà nước có đủ để tách biệt chức năng quản lý và chức năng sở hữu.
13.3. Thành phần hội đồng và thực hiện phán quyết một cách khách quan, độc lập
C. Thành phần hội đồng trong DNNN nên tạo điều kiện thực hiện phán quyết một cách khách quan, độc lập. Tất cả thành viên hội đồng, bao gồm bất kỳ quan chức nhà nước nào, nên được đề cử dựa trên trình độ chuyên môn và có trách nhiệm pháp lý tương đương
Pháp luật quy định các thông số về thành phần của một trong hai loại hội đồng thông qua số lượng thành viên tối đa và tối thiểu trong hội đồng; tối đa 7 thành viên đối với công ty TNHH do nhà nước sở hữu toàn bộ; từ 3-7 thành viên đối với công ty TNHH do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần; và từ 3-11 thành viên đối với DNNN do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần dưới hình thức CTCP.
Không có yêu cầu pháp luật đối với thành phần hội đồng trong công ty TNHH (một thành viên và nhiều thành viên). Tại các công ty đại chúng, HĐQT phải có tối thiểu 1/3 thành viên là thành viên không điều hành. Thành phần hội đồng đối với công ty TNHH được quy định bởi các tiêu chí đặt ra ở cấp trung ương và bộ có thẩm quyền điều chỉnh cho phù hợp với từng vị trí và công ty. Có vẻ như HĐTV của DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ bao gồm “người đại diện phần vốn nhà nước”1 - là đại diện của CMSC hoặc SCIC - hoặc cán bộ Đảng, và cựu nhân viên của công ty.
Ngoài ra, tại các công ty đại chúng chưa niêm yết và công ty đại chúng niêm yết không có BKS (thay vào đó thành lập ủy ban kiểm toán), tối thiểu 20% thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập. Không thể xác minh sự tuân thủ yêu cầu này bằng cách đánh giá trang web của DNNN. Bộ nguyên tắc về Quản trị Công ty dành cho các công ty niêm yết cũng khuyến khích các công ty niêm yết (bao gồm DNNN) đảm bảo tối thiểu 1/3 số thành viên HĐQT là thành viên độc lập.
Có vẻ như những đại diện phần vốn nhà nước đến từ CMSC hay SCIC, và không được coi là công chức hay viên chức, do đó cho phép họ trở thành thành viên hội đồng mà không mâu thuẫn với chính sách không có “công chức” trong hội đồng, đây dường như là một cách làm tốt. Đảng viên cũng tham gia các hội đồng, ví dụ như ở PVN, do nhà nước sở hữu 100%. Hội đồng bao gồm 7 thành viên sau: Chủ tịch (kiêm Bí thư Đảng Ủy Tập đoàn Dầu khí Quốc gia); Thành viên (khiêm Phó Bí thư Đảng ủy); CEO/Tổng Giám đốc PVN; 5 thành viên chuyên trách.
HĐTV cũng có thể có sự tham gia của nhân viên nội bộ công ty có lộ trình sự nghiệp rõ ràng, như mô tả dưới đây. Trong trường hợp này, có vẻ như nhân viên sau đó sẽ mất tư cách nhân viên trong công ty và trở thành thành viên chuyên trách trong hội đồng. Việc này được coi là thăng chức. HĐTV có thể chấp nhận ứng cử viên bên ngoài, nhưng đây thường là phương án thứ hai, thường áp dụng khi không có thành viên nội bộ đủ tiêu chuẩn hoặc công ty đang cực kỳ khó khăn về tài chính. Nhóm công tác hiểu rằng hiện không có thành viên hội đồng bên ngoài độc lập - tức là bên ngoài công ty hoặc nhà nước. Việc thiếu thông tin trong vấn đề này phản ánh khó khăn trong tiếp cận thông tin về thành phần hội đồng và sự thiếu minh bạch nói chung trong các hội đồng ở DNNN. Khi tìm thấy thông tin về hội đồng ở trên mạng, nhóm công tác thấy nam giới chiếm đa số trong các HĐTV ở DNNN Việt Nam.
Đối với CTCP, dù đã niêm yết hay chưa niêm yết, HĐQT phải có từ 3 đến 11 thành viên với nhiệm kỳ 5 năm. Tại các CTCP chưa niêm yết, HĐQT bao gồm Chủ tịch, đại diện người lao động hoặc đại diện chủ sở hữu nhà nước và có thể có Phó Chủ tịch trong trường hợp công ty lớn (ví dụ: SCIC). Tại các DNNN niêm yết, HĐQT phải có tối thiểu 1/3 thành viên là thành viên không điều hành. Ngoài ra, tại các công ty đại chúng chưa niêm yết và công ty đại chúng niêm yết không có BKS (mà chỉ có ủy ban kiểm toán), tối thiểu 20% thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập. Bộ nguyên tắc về Quản trị Công ty dành cho các công ty niêm yết cũng khuyến khích các công ty niêm yết (bao gồm DNNN) đảm bảo tối thiểu 1/3 số thành viên HĐQT là thành viên độc lập. Thành viên HĐQT độc lập chỉ có thể được bầu tối đa hai nhiệm kỳ liên tục.
Tất cả các DNNN phải công bố trên trang web của mình: (b) thông tin về lãnh đạo điều hành công ty...họ được chỉ định ra sao... cũng như những người và lợi ích liên quan tới họ. Bảng 13.2 trình bày tổng quan thông tin thu thập được qua trang web của 10 DNNN lớn về Hội đồng, bảng này cho thấy các DNNN cung cấp rất ít thông tin về hội đồng của mình qua trang web - đặc biệt là không chỉ riêng các DNNN do nhà nước sở hữu 100% - qua đó chúng tôi nhận thấy việc không tuân thủ quy định về công bố thông tin đề cập ở phần này và mục 6.1.
Bảng 13.2. Thông tin công bố liên quan đến hội đồng của 10 DNNN lớn
Bảng tổng hợp từ trang web của 10 DNNN lớn (6 trong số 10 DNNN niêm yết lớn nhất, 1 doanh nghiệp niêm yết, 3 DN do nhà nước sở hữu toàn bộ)
HĐQT (CTCP) /HĐTV (CT TNHH) |
Ban giám đốc |
BKS |
Tên |
Ảnh |
Thông tin bổ nhiệm |
Thông tin về vai trò ở các công ty khác |
Lý lịch cá nhân |
Đại diện độc lập rõ ràng? |
|
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Top 10 DNNN niêm yết lớn nhất |
|||||||||
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank |
x |
x |
x |
x |
x |
x |
|||
Tổng Công ty Khí Việt Nam - CTCP (Pvgas) |
x |
x |
x |
x |
x |
||||
CTCP Sữa Việt Nam |
x |
x |
x |
x |
x |
x |
|||
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) |
x |
x |
x |
x |
x |
x |
x |
||
Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam |
x |
x |
x |
x |
|||||
Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn |
x |
x |
x |
x |
x |
||||
Niêm yết |
|||||||||
Vietnam Airlines |
x |
x |
x |
x |
x |
||||
Nhà nước sở hữu 100% |
|||||||||
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước (SCIC) |
x |
x |
x |
x |
x |
x |
|||
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) |
x |
x |
x |
x |
|||||
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) |
x |
x |
x |
Nguồn: Tác giả tìm hiểu trên trang web các DNNN.
Dựa trên thông tin cung cấp trên trang web công ty, có thể xác nhận rằng chỉ có HĐQT của Công ty Sữa Việt Nam tuân thủ cách làm quy định trong Bộ Nguyên tắc về Quản trị Công ty là có 30% thành viên độc lập (bao gồm cả những thành viên thuộc Ủy ban Kiểm toán), số còn lại bao gồm thành viên không điều hành (40%) và thành viên điều hành (30%). Không thể nói rằng các công ty niêm yết khác không tuân thủ, nhưng thông tin không có trên trang web của họ. HĐQT của Công ty Sữa Việt Nam có đại diện nước ngoài - điều này không rõ ràng nhưng có thể xác minh được đối với Vietcombank, Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn và Vietnam Airlines (tất cả đều là công ty niêm yết).
Như đã thảo luận ở các chương trên, chủ sở hữu nhà nước không những chịu trách nhiệm đề cử thành viên hội đồng trong DNNN một thành viên do nhà nước sở hữu toàn bộ, mà còn về bổ nhiệm, khiển trách, khen thưởng, miễn nhiệm và xử phạt họ. Ngoài ra, nhà nước cũng bổ nhiệm Tổng giám đốc và các Kiểm soát viên. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Chủ tịch hội đồng đối với tập đoàn kinh tế. Chẳng hạn, thành viên trong HĐTV của EVN (tập đoàn kinh tế nhà nước sở hữu toàn bộ) được cơ quan đại diện chủ sở hữu (CMSC) bổ nhiệm. Chủ tịch hội đồng của EVN được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo yêu cầu của CMSC, sau khi Bộ NV đánh giá vai trò trong quản lý các vị trí cấp cao của nhà nước. Tương tự, Chủ tịch HĐTV của VNR được CMSC đề cử để Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật theo pháp luật. Các thành viên khác trong hội đồng được CMSC bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật.
Các cơ quan nhà nước đề xuất một danh sách các ứng cử viên cho hội đồng của DNNN. Người được đề cử sau đó sẽ cân nhắc trước khi chấp nhận hoặc từ chối đề cử. Nếu một ứng cử viên được hội đồng thông qua, việc này sẽ được thông báo cho cơ quan nhà nước trước khi tiến hành bổ nhiệm. Hiện nay có các quy định hướng dẫn quy trình đề cử bao gồm tiêu chí đề cử, quá trình chuẩn bị và thủ tục bổ nhiệm chính thức (Nghị định 97/2015/NĐ-CP, Nghị định 106/2015/NĐ-CP). Tất cả các ứng cử viên đều phải tuân theo quy trình này.
Đề cử được thực hiện theo định hướng của các tiêu chí chung cho bổ nhiệm, quy định trong Nghị định số 159/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ về quản lý người giữ chức danh, chức vụ và đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tiêu chí được Bộ NV xây dựng ở cấp trung ương (Nghị định 159), trong sự hợp tác với CMSC và Bộ KH-ĐT (xác nhận), và áp dụng với tất cả DNNN ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Chúng nên được chuyển đổi thành điều lệ công ty. Các bộ có thẩm quyền có quyền điều chỉnh tiêu chí tùy thuộc vào vị trí trong công ty, với điều kiện không gây mâu thuẫn với Nghị định 159 do Bộ NV phối hợp với CMSC xây dựng. Điều này cho thấy độ linh hoạt nhất định được đảm bảo để điều chỉnh các tiêu chí phù hợp với từng vị trí, lĩnh vực và chuyên môn. Yêu cầu cụ thể có thể được nêu trong Điều lệ Công ty, nhưng nhóm công tác hiểu rằng có thể điều chỉnh thêm các tiêu chí ra bên ngoài phạm vi Điều lệ Công ty. Do thiếu tính minh bạch trong quy trình và không đăng công khai các vị trí, rất khó xác định xem các tiêu chí có được điều chỉnh theo hướng thiên vị một cá nhân hay nhóm so với các cá nhân, nhóm khác hay không. Trong trường hợp là Đảng viên, sẽ có thêm các tiêu chí, điều kiện bổ sung, căn cứ theo quy định của Đảng.
Nhà nước sử dụng một quy trình chi tiết để chuẩn bị lộ trình sự nghiệp cho các cá nhân. Nhóm công tác hiểu rằng quy trình này áp dụng phần lớn cho nhân viên công ty, nhưng cũng có thể áp dụng cho những cán bộ trong khu vực công có tiềm năng thăng chức, theo quan điểm của nhà nước hoặc Đảng. Do đó, quyết định bổ nhiệm của một số hội đồng, nếu không phải là tất cả, được đưa ra dựa trên một nhóm ứng viên được tìm kiếm, tuyển dụng và chuẩn bị trước cho bổ nhiệm có thể xảy ra. Các cá nhân cần tuân theo một “kế hoạch tổng thể” để được “thăng chức”. Hiệu quả làm việc của họ được đánh giá, và có thể đưa họ vào các nhóm để đào tạo phục vụ mục đích thăng chức trong tương lai. Lộ trình thăng tiến như vậy làm dậy lên mối lo ngại về sự trung thành mà cá nhân có đối với quá trình và nhà nước đối với con đường sự nghiệp của họ, cũng như hệ quả đối với việc hành động vì lợi ích của công ty. Đồng thời, nhóm công tác được cung cấp thông tin về nhu cầu đào tạo cho các thành viên trong hội đồng, ít nhất là trong các công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ. Cùng với một bình luận về tiềm năng cải thiện tính chuyên nghiệp của HĐTV, nhóm công tác cho rằng hiện tại cấp hội đồng đang thiếu kỹ năng và chuyên môn cần thiết. Điều này có thể do các tiêu chí còn lại có trọng số khác nhau - ví dụ, vị trí trong nội bộ hoặc sự trung thành với Đảng. Việt Nam có thể mong muốn sửa đổi các tiêu chí hay quy trình áp dụng các tiêu chí, hoặc tìm kiếm bên ngoài những ứng viên với kinh nghiệm, kiến thức phù hợp - có cả các kỹ năng cứng và kỹ năng mềm cần thiết - để chuyên nghiệp hóa HĐTV.
Về lý thuyết, nếu hội đồng của DNNN từ chối một ứng cử viên, thì người đó sẽ không được bổ nhiệm. Song, theo nhóm công tác được biết, chưa từng có bất đồng nào như vậy xảy ra. Theo thông tin từ một DNNN, công ty đánh giá nghiêm ngặt hồ sơ đề cử cho các vị trí trong HĐTV và ban lãnh đạo, nhằm đảm bảo sự tuân thủ với hệ thống quy định - tức là quy định của cả Đảng và Nhà nước về vấn đề/công tác nhân sự. Tuy nhiên, các DNNN có vẻ thường chấp nhận các đề cử của nhà nước, đặc biệt khi thấy rằng nhiều người nằm trong danh sách ứng viên xác định trước.
Điều đáng chú ý là nhóm công tác được thông tin về dự định xây dựng hướng dẫn mới về quy trình đề cử. Theo quan điểm của một bên liên quan, ý tưởng của việc này là để DNNN thu hút được những ứng viên có chất lượng và cơ cấu quản trị của DNNN để nâng cao hiệu quả làm việc và vận hành. Họ cho rằng hiện tại chưa thể làm được điều này vì nhiều lý do, chưa kể đến quy trình đề cử ứng viên “rất cồng kềnh và phức tạp”. Ngoài vấn đề này, các bộ được phỏng vấn không thể (hoặc không sẵn sàng) nói rõ quy trình như thế nào và sẽ thay đổi như thế nào.
Như đã đề cập, pháp luật Việt Nam không cho phép công chức, viên chức tham gia vào hội đồng. Trước năm 2015, việc hội đồng có đại diện từ nhiều bộ là rất phổ biến. Hiện tại, nhà nước có đại diện trong hội đồng thông qua “người đại diện phần vốn nhà nước” đến từ CMSC hoặc SCIC và có thể từ các cơ quan khác, trong đó nhân viên không được coi là công chức hay viên chức. Do đó, dù trên giấy tờ pháp luật quy định nhà nước không nên có mặt trong hội đồng, nhưng thực tế đại diện của nhà nước khá nhiều.
Như đã đề cập, quyền và nghĩa vụ của HĐTV và HĐQT được quy định chi tiết trong Luật Doanh nghiệp, cũng như Nghị định số 159/2020/NĐ-CP (về nhân sự) và Điều lệ công ty. Thành viên của HĐQT và ban lãnh đạo trong DNNN phải chịu trách nhiệm cá nhân với những thiệt hại gây ra cho DNNN do quyết định, chỉ đạo của họ theo mức độ thiệt hại được xác định bởi cơ quan/cá nhân có thẩm quyền sau khi loại bỏ các yếu tố ảnh hưởng khách quan (trong khi đó với công ty tư nhân, chủ sở hữu hoặc cổ đông bị ảnh hưởng bởi quyết định của chính họ). Việc xác định mức bồi thường và/hoặc trách nhiệm hình sự của thành viên ban lãnh đạo DNNN dựa trên ý chí và hành vi (cố ý vi phạm quy định hoặc sơ suất trong khâu quản lý) được đánh giá, xác định và kết luận bởi cơ quan tư pháp.
Theo CIEM, có một số trường hợp người trong HĐTV bị cách chức, đặc biệt là trong bối cảnh chống tham nhũng. Luật số 69 và Nghị định 159 quy định rõ trường hợp chủ tịch hội đồng bị miễn nhiệm. Nếu không thể đáp ứng yêu cầu trong hai năm liên tiếp, họ sẽ bị miễn nhiệm (vi phạm pháp luật, tham nhũng), và trên thực tế đã có nhiều trường hợp và thành viên hội đồng như vậy.
Nhóm công tác đã tìm hiểu từ một DNNN về vấn đề mà các ủy ban chuyên trách trong hội đồng đã nêu lên, liên quan đến việc hiểu rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân của thành viên trong HĐQT. Quan trọng hơn là quan điểm này cho thấy văn hóa mặc định về định hướng thống nhất của hội đồng - không có quan điểm bất đồng hoặc có các nhiệm vụ đa dạng - có thể gây ra vấn đề đối với hiệu quả của hội đồng. Mặt khác, việc làm rõ trách nhiệm của các ủy ban chuyên trách, cũng như hệ quả đối với trách nhiệm tập thể và trách nhiệm của các thành viên còn lại trong hội đồng, có thể quan trọng trong việc giảm thiểu sự chống đối thông lệ tốt là có các ủy ban hội đồng vững mạnh để nâng cao tính chuyên nghiệp của hội đồng.
13.4. Các thành viên hội đồng độc lập
D. Các thành viên hội đồng độc lập, nếu có, không được có bất kỳ lợi ích hay mối quan hệ nào với doanh nghiệp, ban lãnh đạo, các cổ đông lớn khác và cơ quan sở hữu mà có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện phán quyết một cách khách quan
Như đã đề cập, có rất ít yêu cầu bằng văn bản về thành phần thành viên lý tưởng trong hội đồng của DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ. Mặc dù có vẻ như trên lý thuyết, luật pháp cho phép nhà nước thêm thành viên độc lập vào nhóm ứng cử viên, nhưng nhóm công tác thấy rằng không có thành viên bên ngoài (ngoài công ty và ngoài nhà nước) tham gia hội đồng trong các công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ. Luật Doanh nghiệp quy định thành viên trong hội đồng không được là nhân viên hiện tại của công ty hay công ty con của công ty, nhưng nhóm công tác nhận thấy rằng có nhiều quyết định bổ nhiệm thành viên hội đồng trong các công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ là đối với nhân sự nội bộ. Có lẽ, khi một cá nhân được đề cử từ nội bộ, họ sẽ mất tư cách là nhân viên của công ty. Trong khi về mặt chuyên môn, luật pháp cấm công chức, viên chức tham gia hội đồng, nhưng thay vào đó, thành phần nhà nước được đại diện bởi “nhóm đại diện phần vốn nhà nước”, mà OECD thực sự coi họ là các quan chức nhà nước.
Tại các công ty đại chúng, như đã đề cập ở trên, HĐQT phải có tối thiểu 1/3 thành viên là thành viên không điều hành. Ngoài ra, tại các công ty đại chúng chưa niêm yết và công ty đại chúng niêm yết không có BKS (mà chỉ có ủy ban kiểm toán), tối thiểu 20% thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập. Bộ nguyên tắc về Quản trị Công ty dành cho các công ty niêm yết cũng khuyến khích các công ty niêm yết (bao gồm DNNN) đảm bảo tối thiểu 1/3 số thành viên HĐQT là thành viên độc lập. Thành viên HĐQT độc lập chỉ có thể được bầu tối đa hai nhiệm kỳ liên tục.
13.5. Cơ chế ngăn chặn xung đột lợi ích
E. Cần triển khai các cơ chế để tránh xung đột lợi ích khiến các thành viên hội đồng không thực hiện nghĩa vụ một cách khách quan và hạn chế sự can thiệp chính trị vào các quy trình của hội đồng
Luật Phòng, chống tham nhũng của Việt Nam năm 2018 đưa ra định nghĩa chính thức về xung đột lợi ích, theo đó: “Xung đột lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ” (Khoản 8, Điều 3). Người có “chức vụ, quyền hạn” bao gồm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức, cùng với công chức, quân nhân và viên chức quốc phòng, cùng các cá nhân khác.
Luật quy định những trường hợp cấu thành xung đột lợi ích (Điều 29). Các trường hợp này bao gồm khi những người có chức vụ, quyền hạn nêu trên được xác định là có xung đột lợi ích cùng những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người đó thuộc hoặc sẽ rơi vào một trong những trường hợp sau:
Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác từ các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân liên quan đến công việc họ xử lý hoặc thuộc quyền quản lý của họ;
Thành lập, tham gia vào ban lãnh đạo, điều hành của doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, CTCP, công ty hợp danh và hợp tác xã, trừ trường hợp luật có quy định khác;
Tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, công việc thuộc nhóm thẩm quyền giải quyết hoặc tham gia giải quyết;
Sử dụng thông tin có được qua quyền hạn, chức vụ của mình để trục lợi cá nhân hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
Sắp xếp cho vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột nắm giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị mà người đó làm lãnh đạo hoặc phó lãnh đạo;
Góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước hoặc để vợ, chồng, bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi ngành, nghề do người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước.
Ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ, chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; hay cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ, chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình khi được phân công thực hiện giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó;
Có vợ, chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột có quyền và lợi ích trực tiếp liên quan đến việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình;
Can thiệp hoặc gây ảnh hưởng không chính đáng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có thẩm quyền vì mục đích vụ lợi”.
Cơ chế giám sát và cách tiếp cận đối với việc quản lý xung đột sẽ khác nhau tùy thuộc vào hình thức công ty hoặc chức vụ cá nhân. Bộ NV khẳng định “nhân sự mục tiêu” (ví dụ, chủ tịch hội đồng hoặc tổng giám đốc) phải tuân theo quy định phòng, chống tham nhũng nêu trên về kê khai, quản lý tài sản cả trước khi được bổ nhiệm và trong thời gian đương nhiệm. Đối với DNNN dưới hình thức CTCP, cơ chế giám sát nên được thiết lập như sau:
Khai báo tất cả các xung đột lợi ích hiện có hoặc có thể xảy ra trước khi tham gia giao dịch, hoạt động hay mối quan hệ dẫn đến yêu cầu báo cáo.
Khai báo các xung đột lợi ích hiện có hoặc có thể xảy ra liên quan đến tuyển dụng.
Yêu cầu tất cả nhân viên của doanh nghiệp thường xuyên tham gia vào hợp đồng liên quan đến mua bán, dịch vụ, nguyên vật liệu thô, tài sản hoặc sản phẩm phải khai báo hằng năm về bất kỳ xung đột lợi ích nào hiện có hoặc có thể xảy ra.
Không tham gia vào HĐQT của bất kỳ khách hàng, nhà cung ứng hay đối thủ nào.
Tham khảo ý kiến của nhóm kiểm soát tuân thủ về cách xử lý xung đột lợi ích thay vì chỉ dựa vào cách hiểu của riêng họ, vì chúng có thể không nhất quán theo từng trường hợp.
Một cơ chế khác để quản lý xung đột lợi ích là công bố các quyền lợi liên quan, bắt buộc đối với CTCP do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần, được trình bày trong Hộp 13.1. Tuy nhiên, cơ chế này không bắt buộc đối với công ty TNHH một hoặc nhiều thành viên. Có vẻ như các DNNN Việt Nam dưới hình thức công ty TNHH sẽ được lợi từ những yêu cầu toàn diện hơn về quản lý xung đột lợi ích, dựa trên những thách thức đặt ra đối với quyền tự chủ của ban kiểm toán nội bộ và của hội đồng.
Hộp 13.1 Công khai các lợi ích liên quan cho DNNN dưới hình thức CPCP
Theo Điều 164, Luật doanh nghiệp năm 2020: Công khai các lợi ích liên quan
Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác chặt chẽ hơn, việc công khai lợi ích và người có liên quan của công ty thực hiện theo quy định sau đây:
Công ty phải tập hợp và cập nhật danh sách những người có liên quan của công ty theo quy định tại Khoản 23 Điều 4 của Luật này và các hợp đồng, giao dịch tương ứng của họ với công ty;
Thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác của công ty phải kê khai cho công ty về các lợi ích liên quan của mình, bao gồm:
a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà họ làm chủ hoặc sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần; tỷ lệ và thời điểm làm chủ, sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần đó;
b) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà những người có liên quan của họ làm chủ, cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng phần vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ;
Việc kê khai quy định tại khoản 2 Điều này phải được thực hiện trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh lợi ích liên quan; việc sửa đổi, bổ sung phải được thông báo với công ty trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày có sửa đổi, bổ sung tương ứng;
Việc lưu giữ, công khai, xem xét, trích lục, sao chép danh sách người có liên quan và lợi ích có liên quan được kê khai quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được thực hiện như sau:
a) Công ty phải thông báo danh sách người có liên quan và lợi ích có liên quan cho ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên;
b) Danh sách người có liên quan và lợi ích có liên quan được lưu giữ tại trụ sở chính của doanh nghiệp; trường hợp cần thiết có thể lưu giữ một phần hoặc toàn bộ nội dung danh sách nói trên tại các chi nhánh của công ty;
c) Cổ đông, đại diện theo ủy quyền của cổ đông, thành viên HĐQT, BKS, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác có quyền xem xét, trích lục và sao chép một phần hoặc toàn bộ nội dung kê khai;
d) Công ty phải tạo điều kiện để những người quy định tại Điểm c Khoản này tiếp cận, xem xét, trích lục, sao chép danh sách người có liên quan và lợi ích có liên quan một cách nhanh nhất, thuận lợi nhất; không được ngăn cản, gây khó khăn đối với họ trong thực hiện quyền này. Trình tự, thủ tục xem xét, trích lục, sao chép nội dung kê khai người có liên quan và lợi ích có liên quan được thực hiện theo quy định tại Điều lệ công ty;
Thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác để thực hiện công việc dưới mọi hình thức trong phạm vi công việc kinh doanh của công ty đều phải giải trình bản chất, nội dung của công việc đó trước HĐQT, BKS và chỉ được thực hiện khi được đa số thành viên còn lại của HĐQT chấp thuận. Nếu thực hiện mà không khai báo hoặc không được sự chấp thuận của HĐQT thì tất cả thu nhập có được từ hoạt động đó thuộc về công ty.
Quy định này nên được kết hợp với yêu cầu ban lãnh đạo và thành viên hội đồng hoàn thành trách nhiệm, được nêu chi tiết trong văn bản luật (Luật Doanh nghiệp và Nghị định 159/2020/NĐ-CP), cũng như điều lệ công ty. Ví dụ, Điều lệ của EVN quy định nghĩa vụ của HĐTV của EVN, bao gồm các quy định không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng vốn, tài sản của EVN vì mục đích trục lợi cá nhân hay cho người khác.
Pháp luật chỉ định người quản lý có trách nhiệm giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cá nhân, khi có cơ sở để tin rằng người đó có xung đột lợi ích, từ đó không đảm bảo tính đúng đắn, khách quan và trung thực khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Họ làm điều này thông qua giám sát hiệu quả làm việc cùng những công việc khác. Khi nói đến giám sát xung đột lợi ích của thành viên hội đồng, trách nhiệm giải trình kém rõ ràng hơn.
Căn cứ theo Kiểm toán Nhà nước (KTNN), pháp luật Việt Nam về xung đột lợi ích, đặc biệt là Luật Phòng chống tham nhũng, quy định rõ ràng việc công khai, mời và xác định người chịu trách nhiệm quản lý các cá nhân khi phát hiện sự xung đột, nhu cầu báo cáo, cách thức mời xem xét và khi nào cần biện pháp xử phạt.
KTNN nhấn mạnh khó khăn đối với việc phát hiện xung đột lợi ích. KTNN cung cấp thông tin cho nhóm công tác rằng có những trường hợp xung đột lợi ích phát sinh trong quá trình kiểm toán, ví dụ như khi phát hiện một tổng giám đốc ký hợp đồng với một doanh nghiệp có mối quan hệ gia đình với họ. KTNN đã yêu cầu người phụ trách xử lý tình huống, xem lại hợp đồng để đảm bảo và xác nhận tính xung đột, và đình chỉ hợp đồng. Họ nói rằng đây là một sự việc bất thường. Một phần quan trọng của xử lý xung đột lợi ích là khả năng quản lý và giải quyết xung đột, đồng thời minh bạch về hậu quả. Có vẻ như người quản lý hoặc cá nhân khác chịu trách nhiệm về nhân viên có xung đột nắm đáng kể quyền quyết định khi giải quyết xung đột. Chúng tôi không rõ những người phụ trách giải trình như thế nào về việc giải quyết thỏa đáng tình huống xung đột lợi ích trong công ty hoặc trong hội đồng.
Khả năng xảy ra xung đột lợi ích rất rõ ràng khi xét đến vai trò của nhà nước như một chủ thể kinh tế, điều này nêu lên mối lo ngại về sự có mặt của nhà nước trong hội đồng. Việc loại bỏ công chức, viên chức thuộc bộ chủ quản có thể giúp giải quyết vấn đề này, nhưng thực tế là nhà nước vẫn có đại diện thông qua CMSC và/hoặc SCIC. Thật vậy, đối với DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ, “Hội đồng thành viên [HĐTV] là đại diện trực tiếp của chủ sở hữu”.
Luật pháp quy định về xung đột lợi ích ở DNNN Việt Nam tập trung vào xung đột giữa các cá nhân, đặc biệt là xung đột liên quan đến người nhà, ít nhất là đối với DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ. Luật không đề cập đến xung đột lợi ích mà một đại diện nhà nước có thể khiến lợi ích của nhà nước được ưu tiên hơn của công ty. Nói cách khác, khái niệm xung đột lợi ích không áp dụng cho xung đột có thể phát sinh giữa chức năng quy định, kiểm soát và chức năng quản trị kinh doanh của chính phủ ở góc độ rộng hơn. Về vấn đề này, OECD và các quan sát viên quốc tế khác, ví dụ như Ngân hàng Thế giới, từng chỉ ra vấn đề liên quan đến xung đột lợi ích, cụ thể là liên quan đến vai trò của nhà nước với tư cách chủ sở hữu DNNN và nhà hoạch định chính sách. Các bên liên quan đã chỉ ra xung đột lợi ích thực tế và nhận thức là yếu tố cản trở đầu tư từ cơ quan tư nhân, từ đó càng củng cố vị thế chủ đạo của DNNN trên thị trường (OECD, 2018[1]). Nhận thức về xung đột lợi ích có thể gây ra tổn hại, và việc thiếu tách biệt giữa các chức năng nhà nước dường như vẫn là một yếu tố phức tạp trong khả năng đầu tư vào các DNNN Việt Nam.
13.6. Vai trò và trách nhiệm của Chủ tịch
F. Chủ tịch cần chịu trách nhiệm về hiệu quả cuộc họp, và khi cần thiết, phối hợp với các thành viên khác trong hội đồng, đóng vai trò liên lạc để trao đổi với cơ quan sở hữu nhà nước. Cách làm hợp lý là Chủ tịch phải tách biệt với Tổng Giám đốc
Nhiệm kỳ của Chủ tịch (và các thành viên khác của HĐTV) không quá 5 năm. Căn cứ theo Luật Doanh nghiệp, Chủ tịch HĐTV của công ty TNHH một thành viên không thể đồng thời là Giám đốc hay Tổng giám đốc (Điều 93). Tương tự, luật cũng nghiêm cấm Chủ tịch HĐQT của một công ty đại chúng hoặc doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc cổ phần có quyền biểu quyết, không thể kiêm làm Tổng giám đốc (Điều 156). Thực vậy, theo thông tin Mobifone (100% nhà nước sở hữu) cung cấp, “Chủ tịch HĐTV không thể đồng thời kiêm nhiệm Tổng giám đốc theo quy định trong Nghị định số 159/2020/NĐ-CP”.
Đảng viên có thể đảm nhiệm vị trí Chủ tịch và bên cạnh Tổng giám đốc, với mỗi DNNN có “Tổ chức Đảng”, “chi bộ” hoặc “ủy ban” có thể có đại diện trong chức năng khác hoặc chức năng bổ sung trong DNNN. Trong khi phù hợp với các thông lệ hiệu quả, việc tách biệt các vị trí có thể có lợi thêm cho Đảng vì nó cho phép nhiều Đảng viên hoặc đại diện nhà nước đảm nhiệm các vị trí quan trọng, có tầm ảnh hưởng trong DNNN cùng một lúc.
Đối với DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ, đại diện phần vốn nhà nước ở cấp độ doanh nghiệp là đầu mối liên lạc giữa cơ quan sở hữu và HĐQT. Đây có thể là Chủ tịch HĐTV, vì vị trí đó thường do người đại diện phần vốn nhà nước (và/hoặc Đảng viên) đảm nhiệm. Đối với tập đoàn công ty, các chức danh Chủ tịch và Tổng giám đốc được coi là “vị trí cấp cao”, do đó sẽ do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Vì thế, trong khi Chủ tịch nên là người chịu trách nhiệm cho hiệu quả cuộc họp và đóng vai trò là người liên lạc với cơ quan sở hữu nhà nước, thì có vẻ trên thực tế, điều này phụ thuộc vào việc ai là người đảm nhiệm vị trí Chủ tịch trong một DNNN vào thời điểm nhất định.
13.7. Đại diện cán bộ nhân viên
G. Nếu bắt buộc phải có đại diện cán bộ nhân viên trong hội đồng, cần xây dựng cơ chế để đảm bảo việc đại diện như vậy được thực hiện hiệu quả và góp phần nâng cao kỹ năng, thông tin và sự độc lập của hội đồng
Đối với cả DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ lẫn một phần, việc có đại diện cán bộ nhân viên là không bắt buộc. Trên thực tế, người đại diện cho cán bộ nhân viên không nắm giữ vị trí trong hội đồng. Như đã đề cập, HĐTV thường gồm những cá nhân trước đây từng làm việc ở công ty, nhưng vị trí thành viên không dành cho nhân viên như ở nơi khác. Những cá nhân này, như một phần trong nhóm ứng viên tiềm năng cho các vị trí trong hội đồng, nhiều khả năng sẽ được đào tạo trong lộ trình sự nghiệp. Đối với trường hợp CTCP, đại diện cán bộ nhân viên có thể trở thành thành viên HĐQT nếu được bầu vào trong hội đồng cổ đông. Nếu thành viên HĐQT không thể trực tiếp tham gia cuộc họp, họ có thể ủy quyền cho người khác đại diện mình tham gia và phát biểu, nhưng chưa rõ nhân viên có được phép hay không. Nội dung về đại diện được quy định tại Điều 138, 141, 142 Bộ luật Dân sự.
13.8. Các ủy ban trong hội đồng
H. Các hội đồng trong DNNN cần cân nhắc thành lập các ủy ban chuyên trách, gồm những thành viên độc lập và đủ năng lực, để hỗ trợ toàn bộ hội đồng trong thực hiện chức năng của mình, đặc biệt là đối với việc kiểm toán, quản trị rủi ro và chế độ lương thưởng. Việc thành lập các ủy ban chuyên trách cần nâng cao hiệu quả cuộc họp và không làm giảm trách nhiệm của toàn bộ hội đồng
DNNN theo hình thức công ty TNHH (cả công ty một thành viên và nhiều thành viên) không bắt buộc phải có các ủy ban chuyên trách trong hội đồng. DNNN dưới hình thức CTCP có thể thành lập Ban kiểm soát hoặc Ủy ban Kiểm toán - trong đó Ủy ban Kiểm toán theo dõi sát sao về mặt chức năng như quy định trong các tiêu chuẩn quốc tế (Hộp 13.1).
Hộp 13.2. Ủy ban Kiểm toán của DNNN dưới hình thức CTCP được chọn
Quy định sau áp dụng cho DNNN dưới hình thức CTCP lựa chọn phương án thành lập Ủy ban Kiểm toán (thay vì thành lập Ban kiểm soát)
Ủy ban Kiểm toán bao gồm từ 2 thành viên trở lên. Chủ tịch Ủy ban Kiểm toán phải là một thành viên hội đồng độc lập. Các thành viên khác của Ủy ban Kiểm toán phải là một thành viên hội đồng không đảm nhiệm việc điều hành.
Ủy ban Kiểm toán thông qua nghị quyết, quyết định bằng biểu quyết tại cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động Ủy ban Kiểm toán quy định. Mỗi thành viên Ủy ban Kiểm toán có một phiếu biểu quyết. Trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động Ủy ban kiểm toán có quy định tỷ lệ khác cao hơn, quyết định của Ủy ban Kiểm toán được thông qua nếu được đa số thành viên dự họp tán thành. Trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định cuối cùng thuộc về phía có ý kiến của Chủ tịch Ủy ban kiểm toán.
Ủy ban Kiểm toán có quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Giám sát tính trung thực của báo cáo tài chính của công ty và công bố chính thức liên quan đến kết quả tài chính của công ty;
2. Rà soát hệ thống kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro;
3. Rà soát giao dịch với người có liên quan thuộc thẩm quyền phê duyệt của HĐQT hoặc ĐHĐCĐ và đưa ra khuyến nghị về những giao dịch cần có phê duyệt của HĐQT hoặc ĐHĐCĐ;
4. Giám sát bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty;
5. đ) Kiến nghị công ty kiểm toán độc lập, mức thù lao và điều khoản liên quan trong hợp đồng với công ty kiểm toán để HĐQT thông qua trước khi trình lên ĐHĐCĐ thường niên phê duyệt;
6. Theo dõi và đánh giá sự độc lập, khách quan của công ty kiểm toán và hiệu quả của quá trình kiểm toán, đặc biệt trong trường hợp công ty có sử dụng các dịch vụ phi kiểm toán của bên kiểm toán;
7. Giám sát nhằm bảo đảm công ty tuân thủ quy định của pháp luật, yêu cầu của cơ quan quản lý và quy định nội bộ khác của công ty.
Nguồn: Luật Doanh nghiệp
HĐQT (của CTCP) có thể thành lập các ủy ban cụ để phụ trách các chính sách phát triển, nhân sự, lương thưởng, kiểm toán nội bộ và quản trị rủi ro. Số lượng thành viên trên mỗi ủy ban phụ được HĐQT xác định, gồm ít nhất 03 thành viên, cả thành viên HĐQT và thành viên bên ngoài. Các thành viên HĐQT độc lập hoặc không điều hành nên chiếm đa số thành viên của ủy ban phụ, một trong số đó nên được bổ nhiệm làm chủ tịch ủy ban phụ theo Quyết định của HĐQT. Hoạt động của các ủy ban phụ phải tuân thủ quy định do HĐQT đặt ra. Nghị quyết của ủy ban phụ chỉ có hiệu lực khi đa số thành viên tham gia cuộc họp của ủy ban phụ bỏ phiếu đồng thuận. Việc thành lập và hoạt động của các ủy ban phụ trong HĐQT được quy định tại Quy định Quốc tế về quản trị công ty trong các doanh nghiệp đại chúng.
Như đã đề cập trước đó, một DNNN dưới hình thức CTCP đã nêu lên lo ngại rằng sự hiện diện của các ủy ban chuyên trách thực sự gây nhầm lẫn về trách nhiệm tập thể ở hội đồng và trách nhiệm cá nhân của thành viên trong hội đồng. Mặc dù nằm ngoài phạm vi báo cáo đánh giá này, điều này có thể được phản ánh nhằm đảm bảo có thể tận dụng các ủy ban chuyên trách của hội đồng để nâng cao năng lực của hội đồng, cũng như chất lượng ra quyết định của hội đồng. Thị trường cần có bức tranh rõ ràng và đầy đủ về mục tiêu, nhiệm vụ và thành phần của hội đồng. Theo những gì nhóm công tác biết, những thông tin đó đặc biệt quan trọng trong trường hợp HĐQT chọn phương án thành lập Ủy ban Kiểm toán. Các ủy ban khác trong HĐQT thường bao gồm ủy ban đề cử và ủy ban lương thưởng. Trách nhiệm của các thành viên HĐQT khác và toàn thể HĐQT nói chung cũng nên được quy định rõ.
Đối với công ty TNHH, có nhiều đơn vị hoặc bộ phận hỗ trợ hoạt động chức năng của HĐTV. Một số DNNN gọi đây là các ủy ban của Hội đồng, nhưng chúng không giống như các ủy ban chuyên trách thành lập theo tiêu chuẩn quốc tế, vì các ủy ban này bao gồm các cá nhân thuộc quyền quản lý của Tổng giám đốc hoặc các thành viên trong ban quản lý điều hành. Bộ phận hỗ trợ phổ biến nhất là “Ủy ban Kiểm toán và Thanh tra” (hoặc tên gọi tương tự như vậy). Các công ty có thể thành lập các ủy ban khác theo nhu cầu, như Việt Nam Airlines thành lập ủy ban chiến lược và nguồn nhân lực, hay EVN thành lập Ban Tổng hợp và Ban Chiến lược Phát triển. Vì đây không phải là ủy ban chuyên trách của hội đồng, nên quy trình làm việc của những ban này không được xác định hay công bố.
13.9. Đánh giá hiệu quả làm việc hằng năm
I. Dưới sự giám sát của Chủ tịch, các hội đồng của DNNN cần thực hiện đánh giá hằng năm, có cấu trúc để xem xét hiệu quả và hiệu suất của mình
Các công ty TNHH có thể triển khai tự đánh giá trên cơ sở tự nguyện. Một số DNNN xác nhận họ tiến hành tự đánh giá hằng năm, xem xét hiệu quả làm việc của mình và gửi kết quả cho bộ chủ quản chịu trách nhiệm cho việc bổ nhiệm họ (bộ chủ quản). Các bộ trưởng cân nhắc và quyết định kết quả đánh giá cuối cùng. Các bộ chủ quản sử dụng bản tự đánh giá, trong phạm vi đệ trình, để chuẩn bị đánh giá hằng năm từng hội đồng trong DNNN - cả đánh giá toàn bộ cũng như từng thành viên, bao gồm cả Chủ tịch - để cung cấp thông tin phục vụ cân nhắc về lương thưởng, kỷ luật, đề cử và miễn nhiệm. Theo CMSC, các đánh giá có bản chất định tính và cơ học, nhưng thiếu thông tin định lượng. Hơn nữa, việc đánh giá các hội đồng là một thách thức vì quy trình tự đánh giá của hội đồng không có tính hệ thống. Hộp 13.3 dưới đây trình bày chi tiết cách tiếp cận của VIMC.
Hộp 13.3. Đánh giá đối với hội đồng trong các CTCP: trường hợp của VIMC
Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) xây dựng lại thương hiệu vào năm 2020 khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần, sau đó được biết đến với thương hiệu mới VIMC. Cả ban điều hành và HĐQT được đánh giá định kỳ hằng năm. HĐQT của VIMC hiện nay có 3 thành viên, tất cả đều là nam giới.
Ban giám đốc (Ban điều hành) của VIMC được đánh giá hằng năm theo các bước sau:
Bước 1: Để chuẩn bị đánh giá Đảng viên, vào cuối năm, Ban điều hành của VIMC tổ chức một cuộc họp để thảo luận, đưa ra ý kiến, và đánh giá (tạm thời) các thành viên dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh ước tính cho năm đó.
Bước 2: Sau khi có báo cáo tài chính đã kiểm toán, Tổng giám đốc và Phó giám đốc viết bản báo cáo tự phản ánh kết quả đã đạt được đối với nhiệm vụ được giao và đánh giá bản thân (dựa trên số liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán và các tiêu chí đánh giá quy định trong Nghị định số 159/2020/NĐ-CP của Chính phủ).
Bước 3: Ban điều hành tổ chức một buổi họp thảo luận để đưa ra ý kiến và đề xuất xếp loại cho từng thành viên. Sau đó, Ban điều hành gửi báo cáo kết quả thảo luận cho HĐQT của VIMC.
Bước 4: HĐQT của VIMC: (i) đánh giá Tổng giám đốc và (ii) đánh giá Phó giám đốc dựa trên ý kiến từ Tổng giám đốc.
Bước 5: Kết quả đánh giá/xếp loại được ghi lại và thông tin cho từng thành viên trong Ban điều hành và Ủy Đảng của VIMC, cũng như các cơ quan quản lý có thẩm quyền (khi có yêu cầu). Những kết quả đó là cơ sở để VIMC cân nhắc bổ nhiệm, tăng lương và khen thưởng cho thành viên Ban điều hành.
HĐQT của VIMC được đánh giá hằng năm theo các bước sau:
Bước 1: Để chuẩn bị đánh giá Đảng viên, vào cuối năm, HĐQT của VIMC tổ chức một cuộc họp để thảo luận, đưa ra ý kiến, và đánh giá (tạm thời) các thành viên dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh ước tính cho năm đó.
Bước 2: Sau khi có báo cáo tài chính đã kiểm toán, các thành viên HĐQT viết bản báo cáo tự phản ánh kết quả đã đạt được đối với nhiệm vụ được giao và đánh giá bản thân (dựa trên số liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán và các tiêu chí đánh giá quy định trong Nghị định số 159/2020/NĐ-CP của Chính phủ).
Bước 3: VIMC báo cáo kết quả tự đánh giá bằng văn bản cho CMSC, cơ quan này sau đó sẽ đánh giá và xếp loại từng thành viên HĐQT. Kết quả đánh giá/xếp loại được ghi lại và thông tin cho từng thành viên HĐQT, đồng thời là cơ sở để VIMC cân nhắc bổ nhiệm, tăng lương và khen thưởng cho thành viên HĐQT.
Nguồn: Trả lời của VIMC trong bộ câu hỏi của OECD
Trên thực tế, nhóm công tác được thông báo trong chuyến đi thực địa rằng có rất ít trách nhiệm giải trình đối với hiệu quả hoạt động của hội đồng, đặc biệt là công ty TNHH so với CTCP và doanh nghiệp tư nhân. Hơn nữa, việc đại diện phần vốn nhà nước chiếm đa số trong hội đồng có thể gia tăng động lực để các thành viên trong hội đồng báo cáo không đầy đủ hoặc để bộ chủ quản tránh việc bị giám sát chặt chẽ trong quá trình đánh giá hội đồng.
Có các cơ chế khác đang triển khai để đảm bảo hiệu suất và hiệu quả của hội đồng, như BKS, Tổ chức Đảng trong công ty (có thể thể hiện qua vị trí Chủ tịch và Tổng giám đốc), ngoài ra còn có kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập bên ngoài, cũng như thanh tra chính phủ. Trên thực tế, BKS không có đủ người trong hệ thống phân cấp hoặc không đủ tính độc lập để thực hiện nhiệm vụ giám sát. Như đã nêu ở trên, BKS trên thực tế có thể gộp chung với HĐTV (mối quan hệ của HĐTV với HĐQT ở CTCP nếu có thì cũng ít rõ ràng hơn), mặc dù được chỉ định thẩm quyền ngang nhau trong Luật và Điều lệ công ty. Trên thực tế, Tổ chức Đảng có thể mang lại hiệu quả nhất trong việc trực tiếp giám sát hành vi và hành động của hội đồng - đặc biệt là thông qua các Đảng viên không hoàn thành chức vụ Chủ tịch hay Tổng giám đốc (tổng giám đốc thường là thành viên của hội đồng) và những người “bằng cách nào đó độc lập” trong công ty. Tuy nhiên, như đã nêu trong chương này, nhóm công tác không chắc việc giám sát như vậy có tính đến việc ưu tiên hiệu quả hoạt động lên trên các tiêu chí vì lợi ích nhà nước trong quyết định của hội đồng hay không.
13.10. Kiểm toán nội bộ
J. DNNN cần xây dựng quy trình kiểm toán nội bộ hiệu quả và thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, chịu sự giám sát và báo cáo cho hội đồng và ủy ban kiểm toán, hoặc cơ quan tương đương trong doanh nghiệp
Như đã giải thích trong các chương đầu, các công ty mẹ do nhà nước sở hữu toàn bộ hoặc đa số bắt buộc phải có đơn vị hoặc bộ phận kiểm toán nội bộ (kể từ ngày 1/4/2021 - hai năm sau khi ban hành Nghị định số 05/2019/NĐ-CP). Nghị định này quy định vai trò và trách nhiệm của kiểm toán nội bộ và các bên liên quan. Gần đây, Nghị định này đã bổ sung thêm hướng dẫn tuân thủ do Bộ Tài chính ban hành. Trong đó bao gồm hướng dẫn quy chế mẫu về kiểm toán nội bộ áp dụng cho doanh nghiệp (Thông tư số 66/2020/TT-BTC) và Chuẩn mực kiểm toán nội bộ Việt Nam và các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán nội bộ được ban hành gần đây (Thông tư số 08/2021/TT-BTC).
Văn bản pháp luật nhằm mục đích đảm bảo chức năng kiểm soát nội bộ của cơ quan và chỉ định mục tiêu, thông tin chi tiết về quy trình lập kế hoạch kiểm toán, đồng thời yêu cầu xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn đối với kiểm toán nội bộ, điều này giúp phần lớn quy định pháp luật phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Theo thông tin nhóm công tác thu thập được, văn bản này nhìn chung nhằm hỗ trợ các công ty Việt Nam tuân thủ các thông lệ quốc tế về kiểm toán nội bộ và cải thiện công tác quản trị doanh nghiệp. Điều này có thể giúp các DNNN chuẩn bị tốt hơn cho việc chuyển sang áp dụng IFRS từ các chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện hành trong lộ trình 5 năm mà một số DNNN đang hướng tới.
Nghị định này yêu cầu các công ty quyết định thành lập ban kiểm toán nội bộ hay phòng kiểm toán nội bộ, và đặt bộ phận này trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Các công ty phải xác định rõ: (i) vai trò và trách nhiệm giữa HĐTV/HĐQT và BKS đối với kiểm toán nội bộ; (ii) cơ chế báo cáo của kiểm toán nội bộ với HĐTV/HĐQT và với BKS; và (iii) sự khác biệt giữa BKS và ban/phòng kiểm toán nội bộ. Nghị định này cho phép HĐTV và HĐQT có quyền thiết lập các quy tắc cho công tác kiểm toán nội bộ - bao gồm cả trách nhiệm và hoạt động của kiểm toán nội bộ. Chúng phải được thiết lập thông qua quy định kiểm toán nội bộ cụ thể của từng công ty.
Bộ Tài chính đưa ra ví dụ về cách thức HĐTV có thể đặt đơn vị kiểm toán nội bộ trong công ty:
Bộ phận kiểm toán nội bộ được thành lập bởi HĐQT (đối với CTCP)/HĐTV (đối với công ty TNHH)/Chủ tịch (đối với công ty TNHH một thành viên) của DNNN. HĐQT/HĐTV/Chủ tịch của công ty trực tiếp quản lý bộ phận kiểm toán nội bộ (hoặc thông qua Ủy ban Kiểm toán (CTCP) hay cơ quan được HĐQT/HĐTV/Chủ tịch của công ty ủy quyền).
Người phụ trách kiểm toán nội bộ sẽ báo cáo các vấn đề chuyên môn với HĐQT/HĐTV/Chủ tịch công ty (hoặc thông qua Ủy ban Kiểm toán / cơ quan được ủy quyền).
Người phụ trách kiểm toán nội bộ hàng ngày sẽ báo cáo công việc hành chính (ví dụ, thông báo lịch trình kiểm toán, vấn đề đi lại, hoặc chi phí công tác) trực tiếp cho Tổng giám đốc/Giám đốc hoặc người được Tổng giám đốc/Giám đốc ủy quyền.
Người phụ trách kiểm toán nội bộ có quyền báo cáo và thảo luận trực tiếp với HĐQT/HĐTV/Chủ tịch công ty khi cần thiết.
Người phụ trách kiểm toán sẽ báo cáo định kỳ cho HĐQT/HĐTV/Chủ tịch công ty (hoặc thông qua Ủy ban Kiểm toán hay cơ quan được ủy quyền) về mục đích, quyền hạn và trách nhiệm, cũng như hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ liên quan đến kế hoạch của mình. Báo cáo cũng bao gồm các vấn đề rủi ro và kiểm soát quan trọng, rủi ro gian lận, vấn đề quản trị và các vấn đề khác nếu cần hoặc theo yêu cầu của HĐQT và HĐQT/HĐTV/Chủ tịch (hoặc Ủy ban Kiểm toán hay cơ quan có thẩm quyền).
Một ví dụ cụ thể hơn là Tập đoàn Điện lực (EVN) do nhà nước sở hữu toàn bộ, HĐTV ban hành các quy định về kiểm toán nội bộ, giám sát tài chính và kiểm soát trước khi ban hành Nghị định năm 2019 (Quyết định số 44/QĐ-EVN tháng 2/2018). Kiểm toán viên nội bộ báo cáo cho trưởng nhóm và Trưởng ban “Kiểm toán nội bộ và Giám sát tài chính” (được cho là tương tự như “Ban Kiểm soát nội bộ” đề cập trong 5.3). Kết quả kiểm toán trước tiên sẽ được duyệt bởi các thành viên HĐTV được chỉ định phụ trách Ban [Kiểm toán nội bộ và Giám sát tài chính] trước khi trình lên HĐTV. Ngoài ra, Quy định 44 quy định các thủ tục báo cáo cho từng bên có quyền lợi liên quan trong EVN (kiểm toán viên nội bộ và kiểm soát viên) và trong hệ thống kiểm toán và giám sát của tập đoàn có phạm vi rộng hơn bao gồm các công ty có hình thức doanh nghiệp khác.
Cách tiếp cận này phản ánh một số yếu tố nhất định trong cách làm tốt của quốc tế - cụ thể là người đứng đầu ban kiểm toán nội bộ báo cáo về mặt chức năng cho HĐQT/HĐTV và về mặt hành chính cho ban quản lý điều hành, nhưng có nhiều quan ngại về tính tự chủ của kiểm toán nội bộ và khả năng thực hiện hiệu quả vai trò đảm bảo, như nêu chi tiết dưới đây:
Nhiều DNNN lựa chọn để kiểm toán viên nội bộ báo cáo cho - và có khả năng làm thành viên trong - Ban Kiểm soát nội bộ (xem mục 5.3). Ban này “phục vụ” HĐTV, giúp Kiểm toán viên nội bộ tiếp cận được với HĐTV. Tuy nhiên, điều này đặt ra câu hỏi về sự phụ thuộc của kiểm toán nội bộ vào HĐTV/HĐQT và tính tự chủ trên thực tế. Ít nhất HĐTV của công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ bao gồm các cán bộ Đảng và Nhà nước, và thường là Tổng giám đốc. Một DNNN cho biết “hệ thống kiểm toán nội bộ được xây dựng để giúp Hội đồng thành viên [HĐTV] trực tiếp thực hiện vai trò là đại diện chủ sở hữu trong việc bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước, và hỗ trợ Tổng giám đốc [TGĐ] và các lãnh đạo [điều hành] trong thực hiện các mục tiêu cụ thể về bảo vệ tài sản, từ đó đảm bảo độ tin cậy của thông tin, sự tuân thủ pháp lý và hiệu suất hoạt động”. Trọng tâm của công ty này trước tiên là hỗ trợ nhà nước bảo toàn vốn, không phải hỗ trợ công ty đạt được mục tiêu. Mặc dù có thể không rõ ràng, điều này khiến OECD có nhận định rằng những mối quan hệ không chính thức giữa các cơ quan kiểm soát khác nhau làm cản trở tính tự chủ của kiểm toán nội bộ. Đối với một số CTCP hay công ty niêm yết có các hội đồng đa dạng hơn, kiểm toán nội bộ có tính tự chủ cao hơn.
Theo thông tin OECD thu thập được, ít nhất trong một số trường hợp DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ, Tổng giám đốc đã tuyển dụng và sa thải kiểm toán viên nội bộ. Điều này mâu thuẫn trực tiếp với thông lệ quốc tế là quyết định đó thuộc về hội đồng để bảo vệ chức năng kiểm toán nội bộ khỏi những hệ quả của kiểm toán tác động tới ban giám đốc công ty.
Hiện nay, mỗi DNNN có quyền quyết định đặt ra quy tắc để bảo vệ tính tự chủ của DNNN. Điều này có nghĩa là biện pháp bảo vệ kiểm toán viên nội bộ là khác nhau ở mỗi công ty, hoặc thậm chí không có (như đã đề cập trong một cuộc phỏng vấn). Về mặt lý thuyết, những kỳ vọng đối với kiểm toán nội bộ có tính tiêu chuẩn: họ chịu trách nhiệm tuân thủ các tiêu chuẩn liên quan đến tính khách quan cá nhân, trình độ chuyên môn, cẩn trọng trong chuyên môn, và các tiêu chuẩn liên quan đến hoàn thành trách nhiệm công việc. Trưởng ban kiểm toán nội bộ cũng có trách nhiệm bổ sung đối với sự tuân thủ chung trong hoạt động kiểm toán theo tiêu chuẩn kiểm toán nội bộ và phải báo cáo trực tiếp cho quản lý cấp cao nhất. Tuy nhiên, để kiểm toán nội bộ có thể đáp ứng tiêu chuẩn thực hiện chức năng của mình, điều quan trọng là phải xác định rõ các cấp báo cáo để hỗ trợ khả năng tự chủ - và những vấn đề này đang được xem xét ở Việt Nam (xem thêm mục 5.3).
Ngoài ra, nhóm công tác cũng có thông tin rằng nhiều DNNN vẫn thiếu năng lực và nguồn lực để thực hiện những quy định pháp luật mới một cách hiệu quả. Trong một số trường hợp, bộ phận kiểm toán nội bộ tại các DNNN lớn có thể phục vụ chức năng “kiểm tra chéo” ở phạm vi hẹp hơn trực thuộc bộ phận kế toán mặc dù cần đáp ứng nhiều mục tiêu. Trong khi một số DNNN được phép thuê kiểm toán nội bộ hoàn toàn ở bên ngoài, các công ty khác chỉ làm vậy đối với một số đối tượng kiểm toán nhất định.
Khi có chức năng kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên được phép duy trì “mối quan hệ” với kiểm toán độc lập (Điều 20). Trong trường hợp của VIMC, “Ban Kiểm toán nội bộ” (còn gọi là “Ban Kiểm soát nội bộ” như đề cập bên trên) tham vấn với kiểm toán viên độc lập bên ngoài - trong khi đó ở nhiều quốc gia khác, vai trò này dành cho Ủy ban Kiểm toán có vị trí thích hợp trong Ủy ban. Tuy nhiên với hầu hết các công ty, sự tham gia như vậy hiếm khi xảy ra trên thực tế, và việc kiểm toán viên nội bộ liên kết với kiểm toán bên ngoài chỉ giới hạn ở việc theo dõi công việc của kiểm toán bên ngoài trong quá trình thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hằng năm.
Tài liệu tham khảo
[1] OECD (2018), OECD Investment Policy Reviews: Viet Nam 2018, OECD Investment Policy Reviews, OECD Publishing, Paris, https://doi.org/10.1787/9789264282957-en.
Ghi chú
← 1. Khoản 6, Điều 3, Luật số 69/2014/QH13 ngày 26/11/2014 của Quốc hội quy định “... 6. Người đại diện cho phần vốn nhà nước đầu tư vào CTCP, công ty TNHH hai thành viên trở lên (sau đây gọi là đại diện phần vốn nhà nước), là cá nhân được cơ quan đại diện chủ sở hữu ủy quyền bằng văn bản để thực hiện quyền và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước cho phần vốn nhà nước đầu tư vào CTCP hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên”.